![]() |
|
|
Công cụ bài viết | Kiểu hiển thị |
|
#1
|
|||
|
|||
|
Tu viện Sakya (cũng còn được gọi là Pel Sakya) là 1 trong những thánh tích quan trọng nhất của phái Sakya, một phái lớn của phật đạo Tây Tạng. Tu viện này được Khon Khonchog Gyalpo xây đắp vào năm 1073. Tu viện được Khon Khonchog Gyalpo gây ra vào khoảng thời gian 1073Tên của tu viện được phối hợp từ hai chữ: “sa” Tức là đất, và “kya” tức là màu xám, vì tu viện kinh vu lan bao hieu cha me nằm trên một ngọn đồi đất màu xám. Từ khi chế tạo cho tới năm 1959, tu viện này là trụ sở chính của phái Sakya, và là nơi cư trú của các vị chỉ huy tối cao của phái này. Năm 1268, Chogyal Phagpa, vị thứ năm trong năm người tạo phái Sakya, đã mở mang tu viện, và qua nhiều thế kỷ nó trở nên một khu với hàng ngàn điện thờ, bảo tháp, Tăng xá… Trong kí vãng, nức danh của tu viện Sakya và những bậc thầy ở đây đã thực sự vang xa; ngay cả những vị vua như Kublai Khan và Godan Khan – những vị vua người Mông Cổ cai trị China – cũng tìm đến họ. Godan Khan đã từng mời Sakya Pandita, vị thứ tư trong năm vị sáng lập giáo phái, và Chogyal Phagpa đến cung điện của họ. Qua những giáo huấn của hai vị đại sư này, đạo phật rubi thừa được truyền đến Trung Quốc. Chogyal Phagpa trong mùa đó đã ban Hỷ quà (Hevajra) cho Godan Khan; và tỏ lòng cảm kích, Godan Khan đã ban cho Chogyal Phagpa 13 quận của Tây Tạng cùng theo với danh hiệu “Pháp vương”. Điều này Chogyal Phagpa là vị chỉ huy trước hết của Tây Tạng với tầm quan trọng sẽ là giám đốc giáo hội và cũng chính là vị hàng đầu việt nam. suốt trong quãng thế hệ này, tu viện Sakya là trụ sở chính trị của Tây Tạng, và trong không ít năm liền những chủ tịch Sakya vừa là những vị chỉ huy tôn giáo và cũng là kẻ lãnh đạo trần tục. Từ thế kỷ XIV, tu viện Sakya trở nên một tâm học thuật mô hình, và đây được coi như là nơi tiếp nhận mười môn công nghệ được truyền vào từ Ấn Độ. qua nhiều thế kỷ tu viện vươn lên là một khu với hàng ngàn điện thờ, bảo tháp, Tăng xá…Tu viện hiện lưu giữ hàng nghìn mẫu tượng, tranh ảnh, bích họa, thangka, mandala và những pháp khí đặc trưng, gần giống lưu vô số kinh sách bằng tiếng Tây Tạng, Đài Loan Trung Quốc, Mông Cổ và Sanskrit. Nhiều bức thangka ở tu viện có niên đại từ đời nhà Nguyên (1271-1368). Tu viện hiện lưu hơn 3.000 bức thangka. Những bức thangka này biểu hiện những vị thần đạo phật Tây Tạng, hoặc biểu thị những cảnh lịch sử hay thiên nhiên. Thangka được sử dụng trong Phật giáo Tây Tạng giống như các phương pháp để quảng bá Phật pháp. vấn đề chính của các bức thangka là cuộc đời Đức Phật, các vị thần nhà phật Tây Tạng, những vị Bồ-tát, những vị Lama… Bức thangka biểu lộ về cuộc gặp của Kublai Khan với Phapka là bức lừng danh nhất tại tu viện. Có hơn 40.000 quyển kinh sách được giữ nơi đây. trong các số ấy có sản phẩm vô giá Burde Gyaimalung, một biên chép về tôn giáo, lịch sử vẻ vang, nông nghiệp trồng trọt và văn chương của Tây Tạng. Một số trong những cuốn sách này đã được nạm chữ vàng. vào năm 2003, các vị Lama đã phát hiện một tạng thư chứa đến 84.000 cuốn ở tu viện Sakya, được lưu lại chăm bẵm ở phía trong một bức tường chắn dài 60 mét và cao 10 mét. hồ hết những bộ sách này thuộc kinh sách đạo phật, Hình như là những thành công về lịch sử dân tộc, văn học, toán học, triết học, thiên văn, y khoa và nghệ thuật thẩm mỹ. Hầu hết những sản phẩm này có niên đại vào thời Nguyên và Minh, được viết tay phê chuẩn bằng bột vàng, bạc và mực đỏ, và được buộc lại thành từng cuộn. Viện công nghệ Xã hội Tây Tạng hiện tại đang mày mò và thẩm định những cống phẩm này. Vì là chỗ giữ và bảo tàng một kho tàng mập ú các kinh sách, tu viện Sakya thường được trường hợp là Đôn Hoàng thứ hai. Tu viện Sakya sẽ là nơi lưu giữ tạng kinh Phật được viết trên là bối (pattra) đáng chú ý nhất. Những bản kinh này được viết bằng chữ Tây Tạng, Mông Cổ và Sanskrit. Những học giả xưa đã dùng bút sắt để viết kinh lên trên mặt những lá bối có tính rộng làng nhàng 5cm. Vì khí hậu ở Sakya lạnh và ráo mát, nên đã giúp bảo quản những bản kinh viết trên lá này đến tận hiện tại. Ngoài là 1 tu viện, Sakya còn là một tâm học thuật. Khóa học tại tu viện Sakya mở màn với sự học thuộc lòng các bản kinh. Nếu những vị Tăng qua được kỳ đánh giá học thuộc lòng, họ sẽ nhận được bằng Kachupa và được phép học tiếp để trở nên một Geshe. Việc học này gồm 6 vấn đề, bao gồm 18 bộ kinh lớn, và được thi hành phê chuẩn công thức tranh biện. xác định vào sự tiếp nối những chủ đề này, những vị Tăng được nhận bằng Geshe Rabjampa. Họ tiếp nối có thể vào trường Dechenling Tantra để học tiếp các Hevajra Tantra. Và bằng cấp được cấp là Lama Bentsangpa. Dưới thời Cách mạng văn hóa truyền thống, tu viện Sakya bị hủy hoại cực nhọc. sau đó tu viện và đã được hồi phục và tu bổ, và những làm việc tôn giáo được phục hoạt trở lại. Năm 1959, khi Trung Quốc lấn chiếm Tây Tạng, vị đầu tiên của phái Sakya đã lưu vong đến Ấn Độ và đã thiết kế một tu viện Sakya tụng kinh nam mô a di đà phật mới tại bang Himachal Pradesh. và nơi đây, Sakya Trizin – vị chỉ đạo vô thượng của truyền phái Sakya, cùng theo với các vị Lama khác hao hao đồ đệ của mình đã kéo dài trở nên tân tiến truyền phái của họ. Họ đã mở nhiều học viện, trường học, bệnh viện, tu viện… để truyền bá Phật pháp mọi nơi. |
| CHUYÊN MỤC ĐƯỢC TÀI TRỢ BỞI |
![]() |
| Công cụ bài viết | |
| Kiểu hiển thị | |
|
|